Về sau, sử sách ghi chép về trận chiến Phùng Đô, đ.á.n.h giá cực kỳ cao.
“Nguyên Phong năm thứ ba mươi,
Tướng quân Xung Uyên dẫn năm ngàn binh cố thủ Phùng Đô,
Đại phá năm vạn quân Man,
Cho đến khi Chu Nhân Tông (khi ấy là Ngũ hoàng tử) đích thân mang viện binh đến, mới giải được nguy.
Xung Uyên cùng toàn bộ tướng sĩ đều t.ử trận,
Chu Khánh Tông căn cứ "Trung Liệt Sách" mà truy phong,
Cả nước treo cờ trắng tế điếu.”
Trận chiến ấy, được hậu thế tôn vinh là tấm gương điển hình trong việc “lấy ít thắng nhiều, tuyệt cảnh thủ thành”, đời đời khắc cốt ghi tâm.
Xung Uyên — không phụ kỳ vọng, c.h.ế.t vì đạo nghĩa, toàn vẹn thanh danh.
Chỉ tiếc thay…
Rượu ngon nàng cất giữ năm xưa ở kinh thành...
Ta… chẳng còn cơ hội uống được nữa.
57
Trên đất Phùng Đô, chỗ nào cũng vương vết máu.
Dư Cảnh Thắng ủ rũ một tháng trời.
Nhưng rốt cuộc hắn vẫn là đệ đệ ruột thịt của Xung Uyên, cốt cách kiên cường, chí khí không suy.
Hắn vừa nén bi thương, vừa tự thân đốc thúc, gia cố thành trì Phùng Đô, cho đến khi nơi này thật sự vững như thành đồng, nước đổ không vào.
Ngày hắn khởi hành hồi kinh, quay sang hỏi ta:
“Tỷ có muốn theo về không?”
Ta lắc đầu từ chối.
“Ta còn có con đường riêng của mình.”
Dư Cảnh Thắng khẽ cười, lau khô giọt lệ bên mắt:
“Tỷ và tỷ tỷ ta đều giống nhau,
Cứ thích tự rước khổ về thân…
Nhưng cũng đều là người xứng đáng được người đời kính ngưỡng.”
Hắn lên ngựa, bóng lưng kéo dài dưới ánh tà dương.
Trước khi rời đi, còn quay đầu vẫy tay với ta:
“Phùng đại phu, tỷ cứ yên tâm, ân cứu mạng, ta vẫn luôn khắc ghi trong lòng, ngày sau nhất định báo đáp.”
Ta cũng hướng về bóng lưng ấy vẫy tay:
“Giang hồ đường xa, hữu duyên tất tái kiến!”
59
Từ đó về sau, lại là mười năm nữa trôi qua.
Thời gian nơi ta như không còn khái niệm, chỉ còn xuân hạ thu đông, bốn mùa luân chuyển.
Ta dạo bước nơi thiên địa, theo mùa mà nhận biết các loại thảo dược, giao tiếp với trùng, ngư, điểu, thú, cùng hoa, thảo, mộc, cốc, chu du khắp núi sông nam bắc.
Dấu chân ta càng lúc càng xa, mà nội dung trong Tập thư thảo d.ư.ợ.c cũng càng ngày càng phong phú.
Ta lang bạt tứ phương, dùng y thuật cứu người, trợ nghèo khổ, trị bệnh tật, không thẹn là y giả một đời.
Một ngày nọ, ta ghé qua một vùng vừa thoát khỏi ôn dịch, liền dừng chân xem bệnh cho dân.
Cùng đi với ta, lại có mười mấy vị nữ y, thân mặc quan phục của triều đình, giữa đám bệnh nhân mà ra vào như nước chảy, lại tay cầm sổ bút, ghi chép không ngừng.
Ta lấy làm kinh ngạc, bèn hỏi han, mới biết từ mười năm trước, Thái y viện kinh thành đã bắt đầu đào tạo đại quy mô các y giả hiểu biết thảo dược, tuyển học trò không phân nam nữ, sách giảng dạy chính là do một nữ y truyền kỳ tên là Phùng Hỷ, cùng với trượng phu yểu mệnh của nàng biên soạn.
Đến nay, bộ sách ấy vẫn chưa có danh xưng, là bởi Hoàng đế đương triều – Dư Cảnh Thắng, từng nói:
“Đây chỉ mới là sơ bản,
Mà Phùng Hỷ y giả… vẫn đang không ngừng hoàn thiện.”
Ta nghe vậy, khẽ bật cười.
Hóa ra ngày ấy ở đại mạc, ta nói sẽ truyền y đạo, hắn thực sự vẫn luôn ghi nhớ.
Có vài tiểu nữ y còn rất trẻ, khi nhắc đến hai chữ “Phùng Hỷ” thì ánh mắt ngập tràn sùng kính.
Các nàng nói: Dù là Thái y viện, hay những lang trung dân gian, phàm ai từng đọc qua sách của Phùng Hỷ y giả, đều kính xưng một tiếng: “Sư phụ”.
Chỉ tiếc rằng không ai biết nàng hiện ở nơi đâu, hay nội dung còn lại của sách ấy đã biên xong chưa.
Ta không vạch trần thân phận, chỉ bịa một cái tên và lai lịch để gạt đi chủ đề.
Sau khi cùng họ kết thúc việc cứu tế, ta quay đầu nhìn về phía kinh thành.
Bấy lâu nay lang bạt khắp nơi, quả thật đã rất lâu không quay về.
Đến chuyện kinh thành có biến cố lớn như vậy, ta còn chẳng hay.
Ta mỉm cười, cưỡi con lừa nhỏ của ta, thong dong hướng về kinh đô.
60
Cổng lớn Trần phủ đã thay người canh gác trẻ hơn.
Người này tuy ngăn ta lại, nhưng không vì y phục ta rách nát mà khinh rẻ, ngược lại, nghe ta nói xong liền lập tức đi vào bẩm báo cùng người đương gia hiện tại của phủ.
Thủ Vận loạng choạng bước ra khỏi bậc cửa, vừa trông thấy ta, nữ nhân từng được mệnh danh là "Thiết nương t.ử xứ kinh thành" ấy bỗng òa khóc như mưa, nhào vào lòng ta:
“Thiếu phu nhân… đã mười lăm năm rồi, người có biết bọn ta nhớ người đến nhường nào không?”
Ta khẽ vuốt lưng nàng, dịu giọng an ủi:
“Chẳng phải ta đã quay về rồi sao?”
Bao năm nay ta phiêu bạt khắp nơi, thư từ gửi đi cũng chẳng tiện lợi.
Có thư gửi rồi họ không nhận được, có thư họ hồi âm mà ta lại không lấy được.
May mà qua những hồi âm thưa thớt ấy, ta vẫn biết tình hình Trần phủ phần nào.
Thủ Vận quản lý phủ cẩn thận đâu vào đấy, phu nhân Trình thị dưới sự chăm sóc của nàng và Trần Cát cũng khỏe mạnh an khang.
Trần Phủ… đã chẳng còn gì khiến ta phải lo lắng nữa.
Khi ta và Thủ Vận đang mừng mừng tủi tủi ôm nhau khóc, một thiếu niên bước đến, thần thái lễ độ, khom người hành lễ:
“Tiểu nương, vị này là…?”
Ta sững người trong chốc lát, đoán được người trước mặt chính là Trần Cát. Chỉ có điều, hai tiếng “tiểu nương” ấy khiến lòng ta bỗng chùng xuống, sinh ra thương xót cho Thủ Vận.
Thủ Vận lau khô nước mắt, nói với Trần Cát:
“Đây là mẫu thân của con, cũng là chính thất chủ mẫu của Trần phủ ta.”
Trần Cát nghe xong nhất thời sững người, rồi lập tức cúi người hành lễ:
“Mẫu thân… mẫu thân mạnh khỏe.”
Ta bật cười, khẽ vỗ vai hắn:
“Lâu không gặp, con lại lớn lên khôi ngô tuấn tú như thế.”
Hàn huyên xong, chúng ta cùng nhau đến viện của phu nhân Trình thị.
Vừa thấy ta, bà nước mắt lưng tròng, kéo ta vào lòng, không ngừng gọi:
“Hỉ nhi… Hỉ nhi của ta…”
“Những năm qua, bên ngoài khổ lắm phải không? Mệt mỏi không? Có ai ức h.i.ế.p con không?”
Bà vừa hỏi vừa khóc, nước mắt rơi cả lên tay ta:
“Sao con lại gầy đến thế này? Tay còn có vết chai… phải chịu bao nhiêu uất ức mới ra nông nỗi này?”
Ta khẽ lắc đầu cười, đưa khăn lau nước mắt cho bà:
“Con không khổ đâu. Bao năm nay chu du bốn phương, thu hoạch được rất nhiều điều, còn được gặp biết bao chuyện thú vị.”
Ta kể cho họ nghe hết những năm tháng rong ruổi.
Nhất là ở vùng Lưỡng Quảng, nơi đó có một nhóm người gọi là “Tự sáp nữ” – cả đời không lấy chồng, hai người một đôi, sớm tối bầu bạn, bên nhau đến tận cuối đời.
Phu nhân Trình thị nghe xong, ngây người hồi lâu, rồi nói:
“Thì ra… trên đời này còn có cách sống như thế.
Thì ra… còn có một góc trời không có điều tiếng, chẳng cần ràng buộc bởi phụ đạo.”
Bà mỉm cười:
“Tốt quá rồi…”
Chúng ta trò chuyện mãi đến tận đêm khuya.
Biết ta đi đường vất vả, họ bảo ta sớm nghỉ ngơi.
Ta đến phòng sách nơi Trần Lý thường hay ở.
Mọi bài trí vẫn không hề thay đổi.
Ta ngồi trên giường, nhìn hồi lâu, rất lâu.
Tựa hồ Trần Lý đã quay về, cùng ta chỉnh lý Tập thư thảo dược, khen ta xinh đẹp, khen ta thông minh, khen ta là tinh linh của thế gian này.
Ta khẽ cười, rồi ngủ say trong hơi thở phảng phất của chàng.
61
Hôm sau, ta tới nơi chôn cất Xung Uyên.
Thị vệ vừa nghe tên ta liền không ngăn cản, lập tức cho phép vào.
Ta mang theo rượu ngon, đến trước phần mộ nàng, nhưng lại bị một đóa hoa đỏ rực thu hút ánh nhìn.
Đỗ quyên.
Là hoa đỗ quyên.
Tương truyền, có vị nữ tướng vì nước mà chiến t.ử nơi sa trường, xác không mang về được.
Mùa xuân năm sau, nơi nàng ngã xuống, mọc lên một rừng đỗ quyên rực rỡ.
Vị quốc vong thân, cảm động cả trời xanh.
Món quà Xung Uyên tặng ta… ta thật sự đã nhận được rồi.
Lệ nhòa khóe mắt, ta nâng chén rượu lên:
“Một chén mời người.
Một chén, ta tự uống.”
Ta cẩn thận hái đóa đỗ quyên ấy, để vào mục cuối cùng trong Tập thư thảo dược.
“Xung Uyên,
Cảm tạ món quà của người.
Ta… rất thích.”
62
Mùa xuân ngập tràn, gió đông thổi khắp cố đô.
Trang cuối cùng trong Tập thư thảo dược, ta chép lại cẩn thận bài “Bách Thảo Dao” của Trần Lý, còn đặc biệt ghi chú một dòng nhỏ:
“Tác phẩm của thiên tài Trần Lý.”
《Bách Thảo Dao》
Tác giả: Thiên tài Trần Lý
Xuân hái bồ công anh, thanh nhiệt tán hỏa linh;
Hạ hái kim ngân hoa, giải độc lại trừ sảy.
Thu gom cúc dại vàng, sáng mắt, bình can hay;
Đông cất cam thảo rễ, điều hòa trăm t.h.u.ố.c ấm.
Trăm thảo đều là báu, tổ tiên truyền khôn ngoan;
Biết bệnh thì từ tốn, bốn mùa được bình an!
Ta viết xong, bật cười không khép được miệng, nhưng mặt giấy lại ướt một mảng nhỏ.
Chờ mực khô, ta khép lại cuốn Tập thư thảo dược.
Tựa người bên cửa sổ, gió mát lướt qua, vạn vật sinh sôi.
Năm mười lăm tuổi, ta bước chân vào kinh thành, ngây ngô non trẻ, đối mặt với mọi điều chưa biết.
Hai mươi năm đã qua.
Ta gặp gỡ rất nhiều người, cũng tiễn biệt rất nhiều người.
Ta từ một thiếu nữ rụt rè, dần dần học y, chu du thiên hạ, trải qua gió tanh mưa máu, đến nay đã trở thành người thầy t.h.u.ố.c trong mơ của chính mình.
Ta không biết mình còn sống được bao lâu, cũng chẳng biết tương lai còn trải qua bao nhiêu ly biệt và khổ sở.
Nhưng... cần gì tự làm khổ lòng? Ta đã mạnh mẽ rồi.
Cứ thế thản nhiên tiến bước, chẳng sợ gió mưa.
Dù bao gian khó hiểm nguy, cũng chỉ khẽ cười mà nói một câu:
“Tiệc xuân bày, cùng ca khúc 'Hỷ xuân lai'.”
-HẾT-