Thủ Vận nghẹn ngào kể tiếp, từng câu như d.a.o cứa vào lòng:
“Sau khi phụ thân qua đời, mẫu thân ta bi thương quá độ, làm tổn hại t.h.a.i khí. Đại phu đến xem, nói tuy không sao, nhưng cần tĩnh dưỡng. Mẫu thân nghe lời, ngày ngày cẩn trọng, vẫn cảm thấy chưa đủ, liền tốn bạc mời một đạo sĩ giang hồ.”
Nàng hít một hơi, giọng đứt quãng:
“Gã lừa đảo ấy nói rằng mệnh của muội muội tôi khắc với mệnh của t.h.a.i nhi, xúi giục mẫu thân bán muội đi… mà bà, lại thật sự nghe theo.”
“May mà tôi phát hiện kịp thời, kịp mang muội trở về, nếu không thì giờ này, có lẽ muội ấy đã bị bán cho người ta rồi.”
“Gã đạo sĩ kia bị tôi đ.á.n.h một gậy vỡ đầu, lúc ấy mới chịu nhận là bịa đặt để kiếm tiền bán con. Hắn nói, chuyện như vậy hắn đã làm nhiều lần rồi.”
“Sau đó, mẫu thân hối hận, ôm tôi cùng các muội muội khóc lóc xin lỗi, nói chỉ vì sợ t.h.a.i nhi gặp chuyện không lành, mong chúng tôi tha thứ.”
Giọt lệ của Thủ Vận rơi lộp bộp vào chén trà, tan vào nước, hòa cùng hơi nóng, rồi lại bay mờ trong mắt nàng.
“Nhưng tôi… tôi không thể tha thứ nữa.”
“Tôi chỉ thấy ghê tởm, thật sự… ghê tởm đến cực điểm.”
“Muội muội tôi là một sinh mạng sống sờ sờ, chẳng lẽ còn không bằng một bào t.h.a.i chưa thành hình sao?”
Thân thể nàng run lên, lệ rơi không dứt.
Ta thương xót, nhẹ tay lau nước mắt cho nàng.
Trần Lý bên cạnh cũng khẽ than:
“Không ngờ cô phải trải qua bao nhiêu chuyện thế này.”
Ta thổi nguội chén trà, đưa đến bên môi nàng:
“Uống chút nước đi, Thủ Vận.”
Nàng ngẩn ngơ đón lấy, uống cạn, nuốt luôn cả vị đắng của lá trà cùng nước mắt.
Cả ta và Trần Lý đều không biết phải an ủi thế nào.
Có những chuyện rõ ràng là sai,
vậy mà lại được xem như chân lý,
thậm chí còn bị người đời coi như đạo lý bất di bất dịch.
Đêm ấy, ta ôm lấy Thủ Vận trong phòng.
Nàng khóc đến tận khuya mới thiếp đi.
Trong mộng, nàng gọi cha, gọi mẹ, gọi các muội.
Lời gọi ấy vốn thân thiết biết bao,
mà nét mặt lại đầy m.ô.n.g lung và thống khổ.
28
Sự thúc ép của Trình phu nhân ngày càng gấp gáp.
Bà liên tục cho người đến truyền lời — ba câu thì hết hai câu là về chuyện sinh con.
Trần Lý nghe đến phát phiền, dứt khoát đóng cửa, không gặp.
Không ngờ, lần này phu nhân tự thân tới.
Trời tháng mười một, gió lạnh buốt da.
Bà không đi kiệu, chỉ một thân áo khoác, bước vào từ giữa làn sương lạnh.
Trần Lý nhìn ta, nhún vai bất lực.
Sợ mẹ con họ lại cãi vã, ta bèn lánh vào nội thất, không dám xen vào.
Chuyện giữa mẹ con họ, ta nào đủ tư cách chen vào.
Hai người đã oán giận nhau suốt mười mấy năm, ta – kẻ mới gả vào ba năm – có nói gì cũng vô ích.
Ta nấu một ấm trà táo đỏ, hương ngọt lan tỏa, định đợi họ cãi xong sẽ bưng ra hòa giải.
Nhưng ngoài dự liệu — hôm nay, không hề có tiếng cãi.
Phu nhân ngồi xuống, lặng lẽ nhìn Trần Lý bắt mạch kê đơn,
chẳng nói một lời.
Mãi đến khi bệnh nhân cuối cùng rời đi,
bà mới khẽ bảo:
“Giờ con cũng coi như đã có chút thành tựu rồi.”
Lời này khiến ta sững sờ — phu nhân hiếm khi khen chàng.
Bà xưa nay vẫn cho rằng:
“Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao.”
(Vạn nghề thấp kém, chỉ có đọc sách thi đỗ mới là cao quý.)
Trần Lý không đi khoa cử, dù bà miễn cưỡng chấp nhận,
song nỗi thất vọng ấy vẫn là cái gai trong lòng.
Bao năm qua, chàng đi ngược lễ đạo,
bà chỉ biết nhẫn nhịn mà chịu.
Thế mà hôm nay — bà lại khen.
Trần Lý thoáng bối rối, như trẻ nhỏ được khen không biết đáp lời.
Phu nhân lại nói:
“Từ nhỏ, con chẳng mấy khi để ý lời người ngoài.
Thiên hạ nói con là độc t.ử của họ Trần, phải gánh trọng trách chấn hưng môn hộ.
Con vẫn bỏ ngoài tai, cứ một mực theo y đạo.”
Trần Lý khẽ cười:
“Thế gian biến đổi vô thường, trăm năm sau ai biết sẽ ra sao? Cái gọi là chấn hưng môn hộ, nói cho cùng, chẳng qua là vì đời sau.
Mà con… vốn chưa từng nghĩ sẽ có hậu duệ,
thì lấy gì mà chấn hưng?”
Lời nói nhẹ mà ý sâu, khiến gian phòng tĩnh lặng.
Phu nhân trầm mặc hồi lâu, rồi khẽ nói:
“Thế còn Hỷ Nhi thì sao?”
Nghe đến tên mình, ta khẽ nghiêng người, nhìn qua khe cửa ra ngoài.
“Con nói mình không sống được bao lâu, không muốn có con.
Nhưng con đã từng nghĩ đến nửa đời sau của Hỷ Nhi chưa?
Không con, dù mẹ có coi nàng như con ruột,
cả tộc họ Trần cũng chẳng công nhận.
Đến khi con đi rồi, tước vị rơi vào tay người khác,
nhà họ Trần chẳng còn,
vậy con bảo nàng dựa vào đâu mà sống?”
“Huynh trưởng nhà họ Phùng đã mất,
nhị lang kế thừa sản nghiệp,
đối xử với H Nhi thế nào, con rõ hơn ai hết.
Chẳng lẽ con muốn, sau khi con c.h.ế.t, nàng lại phải chịu cảnh ấy một lần nữa sao?”
Trần Lý sững sờ.
Ta cũng đứng c.h.ế.t lặng.
Không ngờ Trình phu nhân sẽ nhắc đến chuyện đó.
Bà nói, giọng mang cả run rẩy lẫn xót xa:
“Trần Lý, con dám chống lại thế đạo, vì con là nam nhân.
Còn thế đạo này… vốn đã không dung nữ nhân.
Nó định sẵn con đường cho họ:
phải dựa vào cha, dựa vào chồng, dựa vào con.
Không có người nương tựa, thì chỉ còn con đường diệt vong.”
“Nếu con thật lòng thương Hỷ Nhi,
thì nên cúi đầu trước quy củ một chút.
Không phải ai cũng có thể chịu được lời gièm pha như con.”
Giọng bà dần lẫn vào nghẹn ngào.
Trần Lý im lặng, dù ngày thường giỏi ăn nói,
cũng chẳng thốt nên lời.
Phu nhân nhắm mắt, nói khẽ:
“Hôm nay là ngày thành hôn của ta và cha con.
Những gì ta từng chịu… ta hiểu hết.
Chính vì thế, ta càng tin —
dù thế nào,
ta cũng phải để con và Hỷ Nhi có một con đường lui.”
Trần Lý nghẹn giọng:
“Nhưng mẫu thân, đó không phải là vật thay thế,
đó là một sinh mệnh,
đứa trẻ ấy phải được sinh ra trong yêu thương và mong đợi,
chứ không phải để làm nơi dự phòng…”
“Con không muốn đứa con của mình phải gánh kết cục như con.
Người biết rõ bệnh teo cơ ấy khổ thế nào mà!”
Phu nhân ngắt lời hắn, kiên định:
“Đứa trẻ đó sẽ không phải là vật thay thế.
Cả họ Trần sẽ yêu thương nó.
Nó… sẽ không mắc phải căn bệnh đó.”
Câu nói ấy, như một tiếng sấm nổ giữa trời quang.
Cả ta và Trần Lý đều chấn động tâm can.
