13
Tang lễ của tổ mẫu, mọi thứ đều giản lược.
Ấy là di nguyện của người.
Nhị thúc bôn ba lo liệu, cả người gầy rộc đi thấy rõ.
Ông hỏi ta:
“Lúc mẫu thân lâm chung, đã nói những gì?”
“Người nói rất nhiều, gọi tên nhiều người.” Ta đáp.
“Có gọi ta không?”
“Có.”
“Gọi mấy lần?”
“Chừng... ba, bốn tiếng.”
“Thế còn đại ca? Gọi đại ca mấy tiếng?” – ông lại hỏi.
Ta do dự, không đáp.
Nhị thúc hiểu rõ, khẽ bật cười khổ:
“Quả nhiên bà vẫn thiên vị đại ca. Đại ca thân thể yếu, họ liền hết lòng lo lắng cho hắn.”
“Ngự ban cung tiễn chỉ có một, ta van xin ba ngày vẫn chẳng bằng một câu 'ta thích' của đại ca. Nhưng hắn lại chẳng kéo nổi, sao không cho ta chứ?”
“Rõ ràng ta giỏi hơn hắn, khi tiên đế bệnh nặng, ta đã nhiều lần khuyên hắn đứng về phía tân quân, hắn lại cố chấp không nghe, khiến Phùng gia rơi vào cảnh lụi bại hôm nay.”
“Ta rõ ràng là tốt hơn, lại còn có người nối dõi cho Phùng gia. Cớ gì mẫu thân vẫn không chịu nhìn ta nhiều hơn một chút?”
Ta lặng im.
Ông xoay lưng về phía ta, tay khẽ nâng lên, thân lại cúi thấp hơn.
Giọng ông không lớn, chỉ đủ để vang vọng trong linh đường vắng lặng.
Tổ mẫu nằm trong linh cữu, cũng chẳng thể nào trả lời ông được nữa.
Sau lễ tang, vốn nên lập tức hồi kinh, nhưng Trần Lý không cho phép.
Hắn nói ta mất hồn mất vía, lại hay say sóng, nếu khởi hành lúc này, e rằng giữa đường sẽ mất nửa cái mạng.
Ta vuốt tay lên vòng ngọc tổ mẫu để lại nơi cổ tay, lắc đầu nói:
“Ta sẽ ổn, không sao đâu.”
Dương Châu chẳng bao lâu nữa sẽ vào mùa mưa dầm, khí ẩm len lỏi khắp nơi, khiến lòng người cũng trở nên nặng nề ẩm ướt. Ta sợ mình sẽ c.h.ế.t chìm trong thứ không khí ấy.
Rời khỏi chốn cũ —
Ấy là điều tổ mẫu mong mỏi nhất.
Trên thuyền, Trần Lý chẳng rời ta lấy nửa bước.
Hắn nói ta quá yếu, khí huyết hư hao, hắn phải canh bên mới yên lòng.
Nhưng bản thân ta lại chẳng thấy gì cả.
Trên trời có trăng. Dưới nước cũng có trăng.
Tổ mẫu vẫn luôn ở bên ta.
Ta lại lên cơn sốt cao.
Và lần này, ta thực sự thấy được tổ mẫu.
Người ôm ta vào lòng, gọi ta là "Hỷ nhi", giọng dịu dàng thân thiết.
Nhưng khi mở mắt ra lần nữa, là Trần Lý đang dùng khăn ướt lau trán cho ta hạ sốt.
“Ta không sao đâu.” Ta gượng cười nói.
“Ừ.” – tay hắn không dừng lại.
“Huynh đúng là một đại phu tốt.” Ta cảm khái.
Trần Lý đưa tay khẽ gõ nhẹ mũi ta:
“Nếu chỉ xem muội là bệnh nhân, đại phu ta đã nhốt muội lại ở Dương Châu, đợi muội khỏe hẳn mới cho lên đường.”
Ta nghiêng đầu, chớp mắt:
“Hóa ra những chu đáo, những nhường nhịn đó, không phải vì ta là bệnh nhân.”
Tay Trần Lý khựng lại giữa không trung.
Đầu ta lại bắt đầu choáng váng, mơ mơ hồ hồ.
“Vậy là... vì điều gì?”
Yết hầu hắn khẽ chuyển động, ánh mắt cụp xuống.
Một giọt nước từ khăn ướt rơi xuống, men theo đường vân tay, nhỏ vào giữa chân mày ta.
Làn mát lạnh ấy lan ra khắp mặt.
Trong cơn mê mệt hỗn độn, chính luồng mát ấy níu giữ ta lại trong phút giây tỉnh táo cuối cùng.
Ta hỏi hắn:
“Vì ta là thê t.ử của huynh… có phải không?”
14
Ta đã quên mất, Trần Lý khi ấy đáp ta thế nào.
Lúc mở mắt lần nữa, đã về đến Trần phủ tại kinh thành.
Thủ Vận thấy ta tỉnh lại, mừng đến rưng rưng.
“Thiếu gia nói mấy ngày nữa tiểu thư sẽ tỉnh, nô tỳ không dám rời nửa bước, luôn canh bên giường.”
Nàng hỏi ta:
“Tiểu thư đói không? Khát không? Có chỗ nào khó chịu không?”
Ta lắc đầu. Có lẽ vì mấy hôm không ăn, bụng đã quen rỗng, nên cũng không cảm thấy đói.
“Trần Lý đâu?” Ta đưa mắt nhìn quanh, trong lòng cảm thấy trống vắng lạ thường.
“Phu nhân hay tin tổ mẫu tiểu thư qua đời, khóc bệnh một trận, còn phát tác lại chứng đau đầu cũ. Thiếu gia đi tìm t.h.u.ố.c cho phu nhân rồi.”
Nghe xong, ta vội chống người định dậy đến thăm, nhưng bị Thủ Vận ấn xuống.
Nàng cau mày:
“Tiểu thư vừa mới tỉnh, thân thể yếu ớt, nên nằm nghỉ đi. Phu nhân có thiếu gia lo, tiểu thư tới cũng chỉ là hai người bệnh truyền u ám cho nhau thôi.”
Lời nàng tuy thẳng thắn, nhưng cũng chẳng sai.
Trước giờ ta chỉ biết phu nhân và tổ mẫu là bằng hữu khuê trung, không ngờ hai người tình thâm nghĩa trọng đến mức ấy.
Vừa nghĩ đến tổ mẫu, tim ta lại nhói đau.
Thủ Vận mang đến một bát cháo trắng, là nàng dặn nhà bếp nấu sẵn từ sớm, chỉ chờ ta tỉnh lại để tránh để bụng đói sinh bệnh.
Ta không thấy đói, ăn hai thìa đã muốn buông, nhưng nàng không chịu, ép ta ăn cho đến khi hết sạch.
Dưới ánh mắt nghiêm khắc ấy, cuối cùng cháo nóng cũng xuống hết bụng.
Bụng có chút ấm, thân thể dần sinh lực.
Thủ Vận thu bát đi, chần chừ hỏi ta:
“Tiểu thư và thiếu gia… có phải đã cãi nhau?”
Ta ngẩn người, không hiểu sao nàng lại hỏi thế.
“Ngài ấy ôm tiểu thư hôn mê trở về phủ, trên mặt chẳng có nửa điểm vui mừng. Dặn vài câu xong liền đi ngay.”
Nàng nhớ lại, khẽ thở dài:
“Nô tỳ chưa từng thấy ngài ấy u sầu đến vậy.”
U sầu? Chẳng lẽ… là ta làm gì khiến hắn không vui?
Ta cố nhớ lại hành trình ở Dương Châu, nhưng không nghĩ ra được chuyện gì khiến hắn buồn lòng.
Thủ Vận chợt tiến lại gần, nhẹ giọng kể:
“Tiểu thư, thật ra nô tỳ tên thật là Từ Phán Đệ. Thiếu gia thấy tên ấy quê mùa, nên đổi cho nô tỳ thành ‘Thủ Vận’.”
“Sau đó, vì thấy nô tỳ chu toàn việc lớn nhỏ, nên phu nhân định gả cho thiếu gia.”
“Việc trên trời rơi xuống thế này, nô tỳ luôn thấy có điều lạ. Chưa kịp tra rõ, thì thiếu gia đã chủ động tìm đến, nói bản thân mắc bệnh, sống chẳng được bao lâu.”
“Ngài ấy bảo không muốn nô tỳ phải thủ tiết vì người sắp c.h.ế.t. Cũng một phần vì ngài ấy không hề yêu nô tỳ.”
“Nô tỳ vốn định vẫn lấy, bởi nhà có đông miệng ăn, cha mẹ lại luôn mong có con trai, đều là tiêu tiền cả. Dù phải làm quả phụ, nhưng ít ra không phải vì tiền bạc mà khốn khổ.”
“Thiếu gia tuy không vui, nhưng cũng chẳng làm khó, chỉ tự mình bỏ đi, cãi với phu nhân, không để nô tỳ bị cuốn vào.”
Ta ngẩn người.
