Kinh thành.
Sau lưng Nguyễn Cung ướt đẫm mồ hôi lạnh.
Tiếng mõ canh ba vừa vang, y mới bước vào thành, liền nghe thấy dân cư xung quanh bàn tán về một cọc đại sự.
“Không biết năm nay Hoàng thượng muốn chỉ hôn, sẽ chỉ định bao nhiêu mối lương duyên?”
Thời tiên đế, chuyện tứ hôn chỉ dành cho con cháu tông thất. Nhưng đến khi kim thượng kế vị, việc tứ hôn liền không ngừng mở rộng, từ hoàng thân quốc thích cho đến những thế gia đại tộc trong kinh thành, bất luận văn hay võ đều có thể lọt vào hàng ngũ được chỉ hôn.
“Trong kinh, chuyện liên hôn giữa các hào môn thế gia nào phải chuyện ngẫu nhiên? Nói là Hoàng thượng ban hôn, nhưng hơn phân nửa vốn đã được sắp đặt từ trước, chỉ là đến lúc ấy nhờ một câu vàng ngọc của Thánh thượng mà thuận thế thành toàn.”
Nguyễn Cung trong lúc chờ tiểu nhị bưng trà đến, nghe thấy người ngồi ở giữa cười bảo: “Năm ngoái, những nhà được chỉ hôn toàn mấy quý nhân quen mặt, chẳng có gì mới mẻ. Nhưng năm nay lại khác.”
Câu ấy vừa dứt, liền có kẻ hỏi: “Chẳng lẽ năm nay Hoàng thượng định chỉ hôn cho… vị kia?”
Vừa nhắc đến ‘vị kia’, mọi người đều phấn chấn tinh thần.
Có một tiểu tử mới từ ngoài kinh vào, không hiểu đầu đuôi, gãi đầu hỏi: “‘Vị kia’ là ai vậy?”
Cả bàn liếc hắn ta bằng ánh mắt ‘ngươi thật chẳng biết gì’. “Còn có thể là ai? Tất nhiên là thượng khách trong yến hội Trung thu hằng năm, bao nhiêu người mòn mỏi con mắt muốn kết thân cũng chẳng trèo lên nổi, vị hầu gia ấy.”
Tiểu tử chớp mắt, lắp bắp: “Hầu gia? Chẳng lẽ là… Vĩnh Định Hầu, Lục hầu gia?”
Đến lúc này gã mới vỡ lẽ, mọi người vừa gật đầu lại vừa lắc đầu.
Vĩnh Định quân, chỉnh là được lấy theo tên Vĩnh Định hầu phủ, trấn thủ trọng trấn biên quan triều đình. Lục Quý phi cùng Tuệ Vương lại được Hoàng thượng sủng ái, còn Lục Thận Như, Vĩnh Định hầu thì quyền thế trong triều sánh ngang không ít lão thần quan văn.
Nhưng hắn vẫn chưa thành gia.
Mỗi độ Trung thu, khi Thánh thượng chỉ hôn, trong triều ngoài dã đều dự đoán: không biết năm nay Lục hầu gia có liên hôn cùng thế gia nào, nghênh đón quý nữ nào qua cửa chăng?
Nhưng hết năm này đến năm khác, Lục hầu phu nhân vẫn chẳng hề xuất hiện.
Mà nay Lục hầu gia đã hai mươi lăm tuổi.
Có người chợt hỏi: “Chẳng lẽ năm nay, Lục hầu phu nhân thật sự xuất hiện?”
Uy danh của Vĩnh Định hầu, Nguyễn Cung cũng nghe qua. Y càng chú tâm lắng nghe, lại thấy có người hỏi: “Có phải hầu phủ đã đệ danh thiếp lên Tông Nhân Phủ rồi không?”
Theo lệ cũ, mỗi năm Trung thu chỉ hôn đều dựa trên danh sách mà Tông Nhân Phủ trình ra, Hoàng thượng mới từ đó định hôn cho các nhà.
Người ngồi giữa lắc đầu, xua tay: “Với thể diện của Vĩnh Định hầu phủ trước mặt Hoàng thượng, căn bản chẳng cần đến Tông Nhân Phủ đệ danh thiếp. Ta nói năm nay Lục hầu gia khác thường, không phải vì danh thiếp, mà là bởi nửa năm trước, ở phường Tích Khánh, hầu phủ đã bắt đầu sửa sang lại phủ đệ. Tính toán thời gian, đúng tiết thu này vừa kịp hoàn thành, chẳng phải là để nghênh đón hầu phu nhân nhập môn sao?”
Mọi người đồng loạt “A” một tiếng, quả là nghe cũng có lý.
“Hầu phu nhân rốt cuộc là người nhà nào? Vì sao chưa từng nghe tin hầu phủ cùng thế gia nào liên hôn?”
Mọi người lần lượt đưa ra vài cái tên, song đều không chứng cứ. Có kẻ cười ha hả: “Hay là hầu phu nhân còn bị mưa gió cản lại ngoài cửa kinh, chưa kịp vào thành đấy thôi?”
Cả quán ầm lên một tràng cười vang.
Nhưng câu nói bâng quơ kia lại khiến Nguyễn Cung hoảng hốt, tim thắt lại, lỗ tai dựng thẳng, mắt dán chặt vào người đang ngồi giữa.
Có kẻ hỏi gã: “Ngươi bảo năm nay không giống mọi năm, chỉ dựa vào đó thôi sao? Không có chứng cứ rõ ràng thì ai mà tin được?”
Hôn sự của Lục hầu năm nào cũng bị đem ra bàn luận, mặc kệ thiên hạ đồn đoán ra sao, kết quả cuối cùng vẫn là hầu phu nhân chưa từng xuất hiện. Bởi vậy ai nấy đều chẳng mấy tin tưởng, chỉ coi như chuyện mua vui. Người ngồi giữa bị ép, đành hắng giọng, làm ra vẻ huyền bí.
Gã há miệng, mọi người lập tức nín thở chờ, nào ngờ gã chỉ trừng mắt thật to rồi bảo:
“Đây là thiên cơ, còn chưa thể tiết lộ.”
Cả bàn đồng loạt xìu xuống, cười ồ chê gã nhạt nhẽo: “Tin ngươi còn chẳng bằng tin ma quỷ.”
Nguyễn Cung cũng nhẹ nhõm thở ra, thầm nhủ bản thân quả nhiên nghĩ nhiều.
Đỗ gia và Vĩnh Định hầu phủ, cách nhau tám sào cũng chẳng dính dáng. Vị Lục hầu phu nhân kia, thế nào cũng chẳng thể là cô nương nhà mình.
Người nọ thấy mình mất mặt, liền vội vàng cao giọng: “Vậy để ta nói một chuyện có chứng cứ hẳn hoi, đảm bảo không kém gì những chuyện phong ba của Lục hầu.”
Vĩnh Định hầu, vốn là trọng thần hô mưa gọi gió trong triều, thân là đệ ruột của Quý phi, là cữu cữu Tuệ Vương. Hắn không gây ra sóng gió thì ai mới xứng để gây ra sóng gió?
Người nọ đắc ý ngồi rung đùi. Có kẻ ngập ngừng: “Ngươi nói… chẳng lẽ là Thám Hoa lang?”
Thám Hoa lang, Thiệu Bá Cử.
Vĩnh Định hầu là em trai Quý phi, còn Thám Hoa lang lại là chất tôn của Hiền phi. Lục hầu là cậu ruột Tuệ Vương, còn họ Thiệu thì là biểu huynh Ung Vương. Một người là chủ soái Vĩnh Định quân, công huân hiển hách, quyền lực lớn trong tay; một người lại là tân khoa Thám Hoa, đường khoa cử rộng mở.
Một văn một võ, đều là hồng nhân trước mặt Thánh thượng.
Người ngồi giữa chỉ cười không nói, khiến cả bàn xôn xao như pháo nổ.
“Ngươi nói thật là Thiệu Thám Hoa? Vậy hắn muốn cùng nhà nào liên hôn?”
Lần này gã không còn giả vờ “thiên cơ bất khả lộ”, chỉ vuốt râu cười: “Nói là quý tộc thế gia, thực ra cũng chẳng phải hào môn gì.”
Ngụ ý rằng, không phải đại hộ danh tiếng lẫy lừng trong kinh.
Câu ấy vừa buông ra, mọi người càng kinh ngạc, rối rít giục hắn: “Đừng có úp mở, mau nói đi, rốt cuộc là nhà nào?”
Nhưng người nọ chỉ cúi đầu nhấp trà, quyết không hé thêm nửa chữ.
Người khác không phục, cười lạnh: “Lại chỉ toàn chuyện bắt gió bắt bóng để lừa người thôi sao?”
Người ngồi ở giữa gian trà bị chọc giận, liền thẳng sống lưng: “Sao có thể gọi là lừa người? Ta chỉ sợ nói ra các ngươi không tin. Cái gia môn ấy, các ngươi tuyệt đối đoán không tới đâu.”
Mí mắt Nguyễn Cung bất giác giật mạnh.
Vừa rồi trong lòng y đã dấy lên linh cảm bất an, nay mí mắt lại nhảy dựng, y tự nhủ hôm nay bản thân quá mức khẩn trương. Hai nhân vật hiển quý trong triều kia, sao có thể trùng hợp đến mức dính dáng đến cô nương nhà mình chứ?
Nhưng người nọ chậm rãi xoay đầu, ánh mắt hướng về phía phường Thành Khánh.
“Người muốn cùng Thiệu thị liên hôn, chính là ở phường Thành Khánh.”
Mọi người đều ngơ ngẩn, đồng loạt nhìn về phía phường ấy. Người nọ lại mỉm cười, buông một câu:
“Phủ đệ cũ của các lão ở phường Thành Khánh, Đỗ gia, sắp có đại hỉ sự.”
*
Nguyễn Cung vội đem hết bạc ra, mời riêng người nọ vào nhã gian uống trà.
“…Ngươi vừa rồi nói Đỗ gia sắp có đại hỉ sự, là khi nào?”
Người nọ lặp lại: “Trong vòng mười ngày. Ta nói, trong mười ngày Đỗ gia sẽ nhờ vào cọc đại hỉ sự này mà thăng tiến nhanh chóng!”
Nguyễn Cung môi lưỡi cứng đờ: “Cho nên, Thiệu thị sẽ xin trong cung ban hôn, liên hôn với Đỗ gia?”
“Đương nhiên. Thân phận Thiệu thị thế nào, hôn sự này tất phải là thánh chỉ tứ hôn. Chỉ cần nhị lão gia Đỗ gia nộp danh thiếp lên Tông Nhân Phủ, việc này chắc chắn thành định.”
Nguyễn Cung miệng đắng chát: “Vậy… ta xin hỏi thêm một câu, Thiệu thị vừa ý là vị tiểu thư nào của Đỗ gia?”
Lời vừa thốt ra, trong lòng y thực ra đã đoán rõ.
Quả nhiên nghe người nọ đáp: “Còn có thể là ai khác? Người có thể xứng đôi với Thám Hoa lang, tất nhiên là con gái độc nhất của tiên các lão.”
Con gái độc nhất của các lão đã khuất, chính là Đỗ Linh Tĩnh, đại cô nương nhà ông ta.
Nguyễn Cung chỉ cảm thấy đầu choáng mắt hoa.
Khó trách nhị phòng che giấu chuyện hỉ sự, không muốn cho bọn họ hay biết.
Thì ra không phải khinh thường thân thế “không cát tường” của cô nương, mà cái gọi là đại hỉ sự ấy, căn bản là chính là dành cho cô nương –!!!
Nhị lão gia đã giấu diếm, tự ý thay cô nương định hôn sự!
Nguyễn Cung vội vàng dập đầu cảm tạ người nọ, rồi hấp tấp rời khỏi kinh thành.
Chỉ là y vừa đi, người nọ cũng từ nhã gian trà lâu bước ra, chuyển vào hàng hiên yên tĩnh.
Trong hành lang tối mờ, có một người đang tựa lưng vào tường, ôm kiếm, khép mắt nghỉ ngơi. Người nọ tiến lên, khom mình bẩm:
“An gia, theo lời ngài phân phó, ta đều đã nói xong. Nguyễn quản sự kia quả nhiên sốt ruột bỏ đi rồi.”
Giọng vừa dứt, một túi bạc nặng trĩu đã được ném vào lòng ngực gã.
Người nọ vội vàng đón lấy, khom lưng cảm tạ. Thấy kẻ ôm kiếm kia xoay người định đi, gã toan đưa tiễn, không ngờ người ta lại bất chợt quay lại.
Thị vệ Sùng An cất giọng hỏi, mang theo vài phần thăm dò:
“Ngươi biết chuyện hầu phủ chúng ta tu sửa phủ đệ, tính đến mùa thu này sẽ hoàn công sao?”
Người nọ cười hì hì: “Bọn tiểu nhân làm nghề này, mấu chốt chính là tin tức linh thông. Nhưng quan trọng hơn, là biết được cái gì nên nói, cái gì không nên nói.”
Sùng An chậm rãi gật đầu: “Không tồi, biết chừng mực.”
Người nọ càng cười, khép nép nói: “Đa tạ An gia thưởng thức. Chẳng hay ngài có thể hé mở cho tiểu nhân một lời, hầu gia nhà ta năm nay… có phải sẽ nghênh thú hầu phu nhân chăng?”
Sùng An khẽ “hừ” một tiếng: “Vừa mới nói ngươi biết chừng mực…”
Người nọ hoảng hốt rụt cổ, nào ngờ Sùng An dứt lời, khóe môi lại cong nhẹ:
“Qua mấy ngày, ngươi sẽ biết.”
*
Kinh thành.
Ngoài Sùng Văn Môn, ngựa xe ồn ào, náo nhiệt phi phàm. Nhưng vừa qua cửa thành thì không khí lại lặng đi ba phần; đến khi rẽ vào phường Thành Khánh, mọi tiếng ồn đều bị chặn ngoài từng lớp tường cao viện lớn của phủ đệ quan lại.
Năm ấy, khi Đỗ lão thái gia đỗ tiến sĩ, cả nhà dốc toàn bộ tài sản mới mua được một viện hai tầng nhỏ. Đợi đến lúc Đỗ đại lão gia đỗ Trạng Nguyên, lại làm quan đến chức các lão, mới dần dần mở rộng hai tầng thành ba tầng, hai dãy, thêm vào một hoa viên đại trạch. Chỉ dựa vào chức tứ phẩm ngoại nhiệm của Đỗ nhị lão gia, vốn chẳng đủ để cư trú nơi đây.
Giờ phút này, mưa đã tạnh, Đỗ nhị lão gia Đỗ Trí Kỳ đứng trong đình viện, chỉ huy tôi tớ:
“Đem số chén đĩa này cất bớt đi vài bộ. Đến khi nhà chúng ta cử hành hỉ sự, chớ để lộ ra dáng vẻ quê mùa tầm thường, kẻo bị người ngoài chê cười.”
Ông ta vừa dứt lời, tiến lên xem xét bộ ấm trà và chén đĩa mới mua về, lập tức nhíu mày:
“Những thứ thế này… Quản sự đâu? Ai sắp xếp chọn mua vậy?”
Chưa nói hết câu, đã có người từ hành lang vội vã bước vào.
Người đến là một cô nương chừng mười bốn, mười lăm tuổi, vận áo sam cổ giao lĩnh màu mật, thêu hoa kim quế, bên dưới là váy mã diện màu thanh thu. Nàng ta bước nhanh tới, hành lễ gọi một tiếng “cha”, rồi liếc nhìn bộ chén đĩa. Thấy lớp men sứ không mấy tinh tế, thậm chí viền mép có chỗ men phủ không đều, liền cất giọng:
“Đây là do con chọn mua. Xin cha chớ trách. Chuyện của đại tỷ tỷ làm gấp gáp, tiền trong trang lại lấy ra liên tục, con một lúc sơ ý, nên chọn phải đồ sứ không đủ tinh xảo.”
Nàng liên tục thỉnh tội:
“Nữ nhi cũng muốn thay đại tỷ làm cho hôn sự được vẻ vang. Chỉ là nữ nhi chưa từng trải qua việc như thế, lại nghĩ cha còn muốn chuẩn bị thêm của hồi môn cho đại tỷ, nơi nơi đều phải dùng tiền, nên cố lo chu toàn đại sự mà lơ là tiểu tiết, chọn phải mấy bộ chén đĩa không đủ tinh xảo.”
Nàng ta chính là nhị cô nương Đỗ gia, Đỗ Nhuận Thanh. Từ khi mẫu thân, Cố phu nhân, trọng thương phải nằm trên giường, trong ngoài việc nhà đều do nàng ta gánh vác.
Đỗ Nhuận Thanh liếc nhìn phụ thân một cái.
Chức quan của cha không cao, tiền bạc trong nhà chẳng được bao nhiêu, mà chi tiêu lại lớn. Đại tỷ vốn có của hồi môn, nếu không phải bỏ thêm trang sức cho nàng, cũng có thể tiết kiệm được một khoản để cha càng thêm thể diện. Ai làm gia chủ mới biết rõ cái khổ của “củi gạo mắm muối đều quý”.
Đỗ Trí Kỳ nghe nữ nhi nói thế, mới chợt tỉnh ngộ: trên đời chẳng có chuyện nào vẹn được cả đôi đường.
Ông sai người đổi một mẻ chén đĩa khác, rồi dặn: “Đồ dùng đặt mua, sớm muộn gì cũng có lúc cần đến.”
Nhưng còn chuyện thêm của hồi môn cho chất nữ, ông lại ám chỉ: “Thôi thì bỏ qua, lúc sinh thời bá phụ nàng cũng để lại cho nó chẳng thiếu gì, chắc là cũng không thiếu thốn đâu.”
Đỗ Nhuận Thanh thấy phụ thân tuy nói vậy, nhưng sắc mặt vẫn nặng nề chưa dứt, liền nối gót đi theo.
Nàng ta bước nhỏ tiến lên, nhẹ giọng: “Cha chớ trách nữ nhi nhiều lời, nhưng nữ nhi hiểu được tâm tư cha.”
Đỗ Trí Kỳ khựng bước. Đỗ Nhuận Thanh lại thấp giọng: “Cha là thấy mối hôn sự cùng Thiệu gia này là do gạt gẫm mà cưỡng ép đặt lên người đại tỷ, sợ nàng ấy cảm thấy thiệt thòi, nên mới muốn chuẩn bị thêm của hồi môn, coi như bù đắp.”
Lời này quả thật đánh trúng tâm sự của Đỗ Trí Kỳ, ông ta có phần kinh ngạc mà liếc nhìn nữ nhi một cái.
Chuyện hôn nhân này, vốn ban đầu ông hoàn toàn không nghĩ đến.
Đại ca lúc sinh thời đã định cho chất nữ một mối hôn sự tốt, nào ngờ cô gia mất sớm. Chất nữ ở quê quán gánh vác Miên Lâu, tiện thể lo liệu luôn việc nhà Đỗ gia, mỗi năm còn gửi về cho ông không ít tiền. Ông nghĩ nếu nàng chịu ở lại trong nhà thì cứ để mặc nàng.
Không ngờ Thiệu thị lại đột nhiên muốn liên hôn cùng Đỗ gia.
Trước kia họ Thiệu không mấy hiển hách, hai nhà cũng chẳng qua lại nhiều. Giờ thì khác, Thiệu Bá Cử vừa đỗ Thám Hoa, lại có Thiệu Hiền phi chống lưng, Ung Vương cùng đám văn thần trong triều nâng đỡ, rất có khả năng nhập chủ Đông Cung. Thế lực họ Thiệu chỉ một bước đã rực sáng.
Còn ông, từ khi hồi kinh bổ khuyết tới nay, vẫn chẳng được bổ nhiệm vào chỗ nào, phải lưu lạc tới những nơi hẻo lánh lạnh lẽo, ngay cả đường quan lộ cũng chẳng mấy hanh thông. Ông đã thật sự chịu đủ.
Thiệu Bá Cử bây giờ chính là hồng nhân trước mặt Thánh thượng. Với Ung Vương là chỗ thân cận, còn có các đại thần dìu dắt. Không nói tiền đồ rộng mở thế nào, chỉ riêng chuyện hắn cưới chất nữ, bản thân ông là thúc phụ cũng có thể nhờ đó mà thăng quan tiến chức, căn bản chẳng phải lời to rồi sao.
Ông nghĩ đi nghĩ lại, càng thấy mối hôn sự này tốt đẹp vô cùng. Nhưng chất nữ tính tình điềm đạm mà kiên quyết, từ nhỏ đã là thanh mai trúc mã với Tưởng Tam Lang, tình cảm sâu nặng. Sau khi Tưởng Trúc Tu mất bệnh, nàng chỉ ẩn cư trong tiểu viện trúc xanh, lấy sách cổ làm bạn. Muốn nàng tái giá… thật chẳng dễ thuyết phục chút nào.
Ai ngờ Thiệu thị lại nói muốn thỉnh Hoàng thượng ban chỉ tứ hôn cho mối hôn sự này ngay trong khoảnh khắc yến hội Trung thu. Một khi thánh chỉ đã ban xuống, ông còn cần gì phải khuyên nhủ chất nữ? Khi ấy, nàng chỉ có thể, cũng là bắt buộc phải gả cho Thiệu thị.
Ông ta lập tức đứng ra làm chủ, đồng ý hôn sự này. Nhưng nghĩ đến cùng, đại ca đại tẩu đều đã qu·a đ·ời, nay ông lại giấu chất nữ mà thay nàng định hôn, ít nhiều trong lòng vẫn thấy bất an.
Còn có một điều khiến ông vướng bận, chất nữ vốn là lần đầu gả chồng, nhưng về nhà ấy lại phải làm kế thất.
Thiệu Bá Cử trước kia đã có nguyên phối, nhưng vợ cả đã qu·a đ·ời, lần này chỉ là tục huyền.
Chuyện này mà truyền ra, e sẽ bị thiên hạ lời ra tiếng vào. Nghĩ thế, Đỗ Trí Kỳ chau mày, bàn tay nắm chặt.
Thấy phụ thân như vậy, Đỗ Nhuận Thanh liền mở lời:
“Cha không nên nghĩ theo hướng ấy. Lần này, sao có thể tính là thiệt thòi cho đại tỷ?”
Nàng ta nói: “Từ sau khi Tưởng tam ca qu·a đ·ời, đại tỷ sa vào bi thương, chẳng màng thế sự, một thân một mình, đối với nữ tử mà nói, sao có thể coi là kế lâu dài? Trái lại cha là thúc phụ, hết lòng hết dạ nghĩ cho nàng, thay nàng định ra một mối hôn sự hiển hách, thân phận cao quý. Đây vốn là cứu vớt nàng, sao có thể nói là thẹn với bá phụ cùng một nhà?”
Lời này khiến Đỗ Trí Kỳ ngẩn người.
Hôn sự lần này, gả cho chính là hồng nhân trước mặt Thánh thượng, lại là ngự khẩu ban hôn. Đặt trong mắt người ngoài, đây chính là điều cầu còn không được. Vậy ông còn áy náy điều gì?
Lời nữ nhi thẳng thắn, cũng giải tỏa phần nào nỗi vướng bận trong lòng ông ta.
Ngay lúc ấy, có người đến báo: quản sự Cố Cửu từ điền trang hồi môn của nhị phu nhân tiến phủ.
Trong nhà xử lý đại sự, khắp nơi cần nhân thủ, nên phải mượn người Cố gia tới chăm sóc điền trang. Thế nhưng sao hắn ta lại bỏ điền trang, dẫm mưa đường lầy xa xôi mà vào kinh?
Cha con hai người đều lấy làm kỳ quái, liền gọi Cố Cửu vào. Không ngờ hắn ta bước lên, vội vàng hành lễ, mở miệng đã nói ngay:
“Nhị lão gia, nhị cô nương, đại cô nương đã từ Thanh Châu tới.”
Chỉ một câu ấy khiến Đỗ Trí Kỳ sững sờ, Đỗ Nhuận Thanh cũng tưởng mình nghe lầm.
“Ngươi chắc chắn nói là… đại tỷ từ Thanh Châu đến kinh thành?”
Cố Cửu sao dám dối trá, bèn đem chuyện Xương Bồ lúc trước đến điền trang hồi môn thăm hỏi kể lại:
“…Tiểu nhân lấy cớ đường sá lầy lội khó đi, muốn giữ đại cô nương ở điền trang ngoài thành. Nhưng chuyện này khó nói, vạn nhất đại cô nương đột nhiên nổi hứng, muốn tự mình vào kinh thì sao?”
Đỗ Trí Kỳ mặt mày đã sa sầm:
“Tĩnh Nương sao lại đến lúc này?”
Ông liền hỏi Cố Cửu: “Nàng vô duyên vô cớ vào kinh làm gì?”
Cố Cửu đáp: “Nói là tới thu thư.”
“Thu thư thế nào mà lại thu một mạch tới tận kinh thành?” Đỗ Trí Kỳ khó lòng tin nổi.
Ông ta vốn nghĩ, mối hôn sự này Thiệu thị sẽ tự thỉnh Hoàng thượng ban chỉ tứ hôn. Đến lúc thánh chỉ hạ xuống, chất nữ dù thế nào cũng phải gả đi, chẳng cần ông ra mặt cưỡng ép.
Nào ngờ Trung thu còn chưa tới, chất nữ đã sớm xuất hiện. Nếu nàng nổi giận làm ầm lên, việc này chẳng phải hỏng bét hết sao?
Mày ông chau càng chặt, nỗi bất an trong lòng lại càng thêm dồn nén. Chất nữ bỗng dưng vào kinh lúc này… chẳng lẽ đó là ý trời?
Trong thoáng chốc tinh thần bối rối, chợt nghe nữ nhi cất lời:
“Cha không cần hao tâm phí sức lo sầu. Nữ nhi lại thấy, trước tiên đại tỷ chưa chắc đã biết chuyện này. Thứ hai, nếu cha sớm đem danh thiếp dâng Tông Nhân Phủ, thì dù đại tỷ có biết, còn có thể làm ra được chuyện gì nữa sao?”
“Gạo đã nấu thành cơm”. Đỗ Trí Kỳ bấy giờ mới chợt ngộ ra.
“Có lý.”
Ngước nhìn nữ nhi, thần sắc ông cũng dần dịu lại.
“Con ta thật sự đã trưởng thành, lo nghĩ khắp nơi vì nhà ta. Đại tỷ tỷ của ngươi, so với ngươi khờ dại hơn tám chín phần, thực chẳng bằng được ngươi.”
Đỗ Nhuận Thanh được cha khen, lại đỏ mặt thẹn thùng, vội vàng lắc đầu:
“Mẫu thân sau khi bị thương, nữ nhi trong nhà lo liệu suốt một năm nay, mới càng hiểu cha thật chẳng dễ dàng. Chỉ muốn chia bớt lo lắng cho cha mà thôi.”
Đỗ Trí Kỳ bao năm quanh quẩn làm thuộc quan nơi xa, mơ ước kinh quan nhưng mãi chẳng thành, trong lòng vốn đã u uất khó nguôi. Lại thêm năm ngoái thê tử gặp tai nạn xe ngựa, phải nằm liệt giường, hằng ngày cần dược liệu quý để điều dưỡng, khiến gánh nặng càng thêm đè ép.
Nỗi khổ trong lòng ấy, chỉ cha con hai người mới thấu rõ.
Nói đến đây, cả hai cha con đều đỏ hoe mắt.
Đỗ Trí Kỳ hiếm khi ôn nhu như thuở con còn nhỏ, đưa tay xoa mái tóc nàng. Đỗ Nhuận Thanh thì tựa đầu vào cánh tay phụ thân, khẽ hít mũi.
Lần này, Thiệu thị chủ động kết liên hôn với Đỗ gia, muốn cưới Đỗ Linh Tĩnh nhập môn, chính là cơ hội để họ xoay chuyển cục diện. Làm sao có thể trơ mắt nhìn mà bỏ lỡ?
Đỗ Trí Kỳ lập tức đứng thẳng, hít sâu một hơi, giọng chắc nịch:
“Đêm nay ta sẽ viết danh thiếp. Ngày mai, sáng sớm liền đưa đến Tông Nhân Phủ, nhất định phải định đoạt cho bằng được, chắc chắn việc này phải thành!”
Để mở chặn quảng cáo vui lòng
Thông tin cá nhân
Truyện đang đọc
Chưa có truyện đọc
Đơn hàng của bạn
Chưa có đơn hàng nào
Lịch sử mua gói
Chưa có lịch sử mua gói
